Máu là một mô lỏng chứa nhiều chất khác nhau lưu thông khắp cơ thể qua động mạch và tĩnh mạch rồi tới mô và các cơ quan. Máu có rất nhiều tế bào lơ lửng trong một dung dịch gọi là huyết tương. Mỗi người trưởng thành trung bình có 5 lít máu. Hai nhiệm vụ chính của Máu là: a)hô hấp để lấy dưỡng khí cho cơ thể, thải thán khí ra ngoài; và b)mang chất dinh dưỡng từ hệ tiêu hóa tới tế bào. Huyết tương chứa chất bổ dưỡng để nuôi cơ thể và các yếu tố chống máu đóng cục. Đa số tế bào trong máu được sản xuất từ tủy xương và có nhiều nhóm với nhiệm vụ khác nhau: -Hồng huyết cầu chứa huyết cầu tố để chuyên trở dưỡng khí và thán khí. -Bạch huyết cầu với nhiều loại và nhiệm vụ riêng biệt như bạch cầu trung tính (neutrophils) chống xâm nhập của vi khuẩn; lymphô bào (lymphocytes) tạo ra tính miễn dịch cho cơ thể; bạch cầu đơn nhân và đại thực bào (monocytes, macrophages) tiêu diệt vi khuẩn; tiểu cầu (platelet) tạo nút bít chỗ hở ở mạch máu và khích động sự tạo máu cục để ngăn băng huyết. Huyết tương có thể có nhiều chất béo, sẽ đưa tới bệnh về mạch máu và bệnh về tim. Riêng về tế bào thì hồng huyết cầu chịu nhiều ảnh hưởng của sự dinh dưỡng. Thiếu hoặc dư dinh dưỡng đều gây ra nhiều rối loạn cho cả tế bào máu lẫn huyết tương. Thiếu máu (anemia) là một bệnh thường xẩy ra. Thiếu Máu Dinh Dưỡng Thiếu máu là bệnh trong đó có sự giảm về kích thước và số lượng của hồng huyết cầu hoặc giảm số lượng huyết cầu tố trong hồng cầu. Hậu quả của thiếu máu là: a) giới hạn sự trao đổi dưỡng khí và thán khí giữa máu và các tế bào cơ thể và b) giảm dinh dưỡng cho các mô bào. Có nhiều loại thiếu máu: -Thiếu máu có liên hệ tới vấn đề dinh dưỡng như thiếu sinh tố B12, Folic acid, khoáng chất Sắt. -Thiếu máu không do dinh dưỡng như băng huyết, các bệnh hủy hoại máu, trong bệnh ung thư bạch cầu, trong một số bệnh nhiễm, do ký sinh trùng, tác dụng của dược phẩm, hóa chất, bệnh bẩm sinh, bệnh kinh niên... Theo tiêu chuẩn của Cơ Quan Y Tế Thế Giới, thiếu máu xẩy ra khi lượng huyết cầu tố ở dưới 11 mg /100ml máu cho trẻ em từ 6 tháng tới 6 tuổi; dưới 12 mg cho tuổi từ 6 đến 14; nam giới 13 mg; nữ giới trưởng thành không có thai dưới 12 mg; còn có thai thì dưới 11 mg. Trẻ em và phụ nữ trong thời kỳ sanh đẻ thường hay mắc bệnh thiếu máu liên hệ tới dinh dưỡng. Ở Việt Nam có tới 60% trẻ em tuổi từ 6-24 tháng và 30-40% phụ nữ có thai bị thiếu máu dinh dưỡng. Trong khi đó thì trên thế giới tỷ lệ dân chúng bị thiếu máu dinh dưỡng cũng khá cao: 30%. Thiếu máu Dinh Dưỡng đưa tới giảm khả năng làm việc bằng chân tay; giảm phát triển trí tuệ và khả năng học hỏi, tập trung của học sinh; tăng các rủi ro sanh non, tăng tử vong của cả mẹ lẫn con; tăng xuất huyết và nhiễm trùng sau khi người mẹ lâm bồn. Xin tìm hiểu về ba bệnh Thiếu Máu Dinh Dưỡng thường thấy. 1-Thiếu máu vì không đủ Sắt Thiếu sắt là hậu quả chính của kém dinh dưỡng. Sắt là một khoáng chất có rất nhiều trong thực phẩm. Mặc dù cơ thể chỉ cần một lượng rất nhỏ, vậy mà thiếu khoáng này là chuyện thường xẩy ra trong vấn đề ăn uống và đưa tới nhiều hậu quả đáng kể. Sắt giúp huyết cầu tố chuyên trở dưỡng khí đi nuôi tế bào vào giúp loại bỏ thán khí khỏi cơ thể. Sắt cũng là một thành phần của nhiều diêu tố (enzyme) trong hệ thống miễn dịch để chống nhiễm vi khuẩn. Sắt còn giúp chuyển hóa beta-carotene thành sinh tố A, tạo ra chất collagene để liên kết các tế bào với nhau. Cơ thể hấp thụ sắt nhiều hơn khi kho dự trữ xuống thấp và ít hơn khi kho có đầy đủ. Trong thực phẩm có hai loại sắt: heme iron có nhiều trong thịt đỏ, thịt gà, cá; và nonheme iron có nhiều trong thực vật và lòng đỏ trứng. Heme iron được hấp thụ mau hơn và nhiều hơn là nonheme iron. Nhưng khi ăn chung thực phẩm thực vật với thịt cá hoặc dùng thêm sinh tố C thì sự hấp thụ nonheme iron khá hơn. Thí dụ ăn sáng với trứng tráng mà có thêm thịt “ham” giúp hấp thụ sắt; thịt gà giúp hấp thụ iron ở gạo ; thịt heo giúp hấp thụ iron trong đậu, strawberry ở oatmeal. Gan bò có nhiều iron hơn thịt bò, thịt gà, thịt heo, cá. Trong thiếu máu vì không đủ sắt, hồng cầu thường nhỏ và lượng huyết cầu tố cũng ít. Đây là bệnh thiếu dinh dưỡng thông thường nhất trên thế giới và cũng là bệnh thiếu máu thường thấy ở phụ nữ vào tuổi có thai và ở trẻ em. Bên Việt Nam, theo Bộ Y Tế, lượng sắt trong thực phẩm của dân chúng chỉ có từ 30-40% nhu cầu nhất là ở nông thôn. Thiếu mắu do thiếu sắt là điều thường thấy ở các vùng này. Vì thế, giới chức y tế nơi đấy đã tăng cường khoáng Sắt trong nước mắm để chấn chỉnh tình trạng thiếu máu vì dinh dưỡng. Nước mắm là món ăn hàng ngày của mọi người. Nhu cầu sắt Nhu cầu cao khi trẻ sanh thiếu tháng: 1mg sắt / ngày. Trẻ sanh bình thường chỉ cần một phần ba số lượng đó. Tới hai tuổi cần 1mg; tăng lên 2mg ở tuổi đang lớn để rồi trở lại mức trung bình mỗi ngày là 1.2mg. Phụ nữ trong tuổi sanh đẻ thì cần khoảng 2mg để bù lại số sắt thất thoát vào mỗi kinh kỳ. Khi có thai, nhu cầu tăng gấp đôi vào khoảng 6 tháng, gấp ba vào 9 tháng để cung ứng đủ máu cho thai nhi và cho tử cung lớn rộng. Nguyên nhân Nguyên nhân đưa tới thiếu máu vì thiếu sắt gồm có: 1-Không dùng đủ sắt vì phần ăn thiếu. Chẳng hạn ăn nhiều thực phẩm thực vật, không có loại heme sắt. 2- Không hấp thụ được vì các bệnh tiêu hóa như tiêu chẩy, không có acid trong bao tử, bệnh ruột, cắt bỏ bao tử, dưới tác dụng của dược phẩm. Các thuốc chữa loét bao tử tagamet, zantac, thuốc tetracycline giảm dịch vị acid trong bao tử. 3- Không sử dụng được sắt như trong trường hợp mắc bệnh bao tử kinh niên. 4- Tăng nhu cầu sắt để tăng khối lượng máu như ở tuổi đang tăng trưởng, có thai, nuôi con sữa mẹ. 5- Tăng thất thoát như băng huyết vì thương tích, loét bao tử, bệnh trĩ, ung thư ruột, ký sinh trùng ruột, khi có kinh nguyệt. Triệu chứng Bệnh nhân thường có một số triệu chứng như lơ đễnh, chia trí, mệt mỏi, kém ăn, làm việc mau hụt hơi. Một triệu chứng đặc biệt chưa có giải thích là bệnh nhân thích ăn những món bất thường như đất sét, nước đá cục, mảnh vụn sơn tường. Ăn như vậy có thể đưa tới tổn thương niêm mạc bao tử, ruột. Ở giai đoạn trầm trọng, da bệnh nhân tái nhợt; niêm mi mắt trắng lạt thay vì đỏ tươi; móng tay mỏng và phẳng; lưỡi viêm chơn bóng như bôi sáp; bao tử không còn chất chua. Trẻ em thiếu máu có thể chậm học hỏi, kém tăng trưởng. Định bệnh Thường thường, xét nghiệm kích thước, hình dáng và mầu của hồng huyết cầu cũng cho ta khái niệm đại cương về loại thiếu máu. Để chính xác hơn, có thể đo lượng Ferritin trong huyết tương để biết kho dự trữ sắt thiếu hay không; đo lượng transferritin được chuyển cho hồng cầu; đo lượng free erythrocyte protoporphyrin, một chất mà khi hợp với sắt sẽ trở thành huyết tồ. Nếu chất này có nhiều trong máu là dấu hiệu của thiếu sắt. Thành ra, không phải cứ thấy sắt trong máu thấp là uống sắt, mà phải căn cứ vào mức độ Ferririn và Transferritin. Điều trị Điều trị căn cứ vào việc xác định nguyên nhân gây bịnh và trị nguyên nhân. Ngoài ra, cũng cần bổ khuyết cho kho dự trữ sắt. Việc này được thực hiện bằng cách cho người bệnh dùng sắt dưới dạng ferrous sulfate từ 200- 300 mg/ba lần mỗi ngày. Có loại thuốc viên và thuốc nước. Sắt được hấp thụ dễ dàng khi bụng đói, nhưng lại gây ra kích thích niêm mạc. Để tránh khó chịu bao tử và táo bón, có thể uống khi no bụng. Khi không uống được sắt như là rối loạn tiêu hóa thì có thể chích dung dịch thuốc bổ có sắt. Về thực phẩm thì thịt bò, cá, gà, gan, trứng, đậu, sữa, đều có nhiều sắt. Sắt trong thực phẩm động vật ( heme iron) được hấp thụ nhiều hơn sắt trong thực vật (nonheme iron). Sinh tố C, đường lactose trong sữa, acid hydrochloric làm tăng hấp thụ nonheme iron. Chất rượu cũng giúp hấp thụ sắt cho nên các thuốc bổ máu đều có một chút alcohol. Ngoài ra, nấu thực phẩm với nồi bằng sắt cũng tăng khoáng này trong thức ăn. Vì thế tại nhiều quốc gia người ta thay thế nồi sắt bằng nồi nhôm, thép không rỉ hoặc các hợp kim khác. Calcium, phosphate, lòng đỏ trứng, trà, chất xơ, đậu nành sống làm giảm hấp thụ nonheme iron. Các thuốc chống acid bao tử, thuốc cimetidine, tetracycline, zantac làm giảm hấp thụ sắt. Cũng nên lưu ý là khi tiêu thụ quá nhiều sắt thì có thể bị bệnh Nhiễm Sắc Tố Sắt Haemochromatosis trong đó sắt sẽ tích tụ ở gan, lá lách, tủy sống, tế bào tim dưới dạng ferritin và hemosiderin. Sự kiện này xẩy ra khi chẳng may thực phẩm có nhiều sắt hoặc ở một số quốc gia dùng nồi bằng sắt nấu thức ăn. Dùng thêm chất sắt đúng theo hướng dẫn của bác sĩ thì ít khi xẩy ra bệnh này. Bệnh nhân có các triệu chứng như mỏi mệt, đau bụng, nhức mỏi xương khớp, kinh kỳ không đều, loạn cương dương. Khi trầm trọng, gan sưng to, da thâm mầu đồng đen, đái đường, tim suy và bệnh nhân có thể chết. Bệnh thường được chữa bằng lọc máu để loại bớt sắt dư thừa đi. 2-Thiếu máu vì thiếu sinh tố B 12 B 12 đứng hàng thứ tám của nhóm sinh tố B được khám phá vào năm 1948 trong gan súc vật. Sinh tố này rất cần cho sự phân bào. Thực phẩm động vật đều có sinh tố B 12, ngược lại mọi sinh vật mọc từ dưới đất lên đều không có sinh tố B 12 hoặc là có rất ít. Thiếu sinh tố này thường là do: a-Không ăn đầy đủ thực phẩm có B12 như thịt, pho mát, trứng sữa bò, sữa chua hoặc chỉ ăn rau trái. Bệnh thường thấy ở người ăn chay thuần túy, trẻ em bú sữa mẹ ăn chay, áp dụng chế độ dinh dưỡng theo sở thích riêng (fad diet) và đôi khi ở người nghiện rượu kinh niên. Điều nên nhớ là lá gan của ta dự trữ nhiều B 12 cho nên bệnh chỉ xẩy ra sau dăm năm không ăn thực phẩm chứa sinh tố này. b-Không hấp thụ được B 12 là nguy cơ chính của bệnh. Sự hấp thụ này diễn ra ở đoạn cuối của ruột tràng (ileum) với sự hiện diện của một nhân tố nội tại (intrinsic factor) do bao tử tiết ra. B12 bám vào nhân tố này để được hấp thụ vào ruột. Bệnh xẩy ra trước khi kho sự trữ cạn sinh tố này. Những lý do đưa tới kém hấp thụ là: bệnh bao tử tiết ra không đủ nhân tố nội tại; cắt bỏ một phần bao tử; bệnh ở hồi tràng (ileum) như trong bệnh Crohn; ký sinh trùng trong ruột ăn hết B12. Hấp thụ cũng giảm dần với tuổi cao vì ở tuổi này, dịch vị bao tử ít đi. Vì thế sau 60 tuổi, nên đo mức độ B 12 hàng năm để coi có thiếu và có cần chích B 12 hay không. c-Không sử dụng được B12 trong các bệnh thận, gan, suy dinh dưỡng, ung thư Diễn tiến của bệnh rất âm thầm. Người bệnh ăn mất ngon, đại tiện khi bón khi lỏng, đau ngầm ở bụng dưới, lưỡi đỏ rát, mất kí, rối loạn chức năng dây thần kinh ngoại vi. Khi bệnh đã được chẩn đoán thì bệnh nhân cần được chích B 12. Ban đầu thì chích mỗi tuần cho tới khi hồng cầu trở lại bình thường rồi sau đó mỗi tháng một lần trong nhiều năm để tránh tổn thương thần kinh. 3- Thiếu máu vì thiếu Folic acid Folic acid có trong mọi loại thực phẩm thiên nhiên như rau, trái cây, gan động vật và trong cereal tăng cường folate. Folic rất dễ bị nhiệt tiêu hủy khi nấu thực phẩm quá kỹ. Vì thế, nếu mỗi ngày đều ăn thực phẩm nấu vừa phải thì không thể thiếu sinh tố này. Thiếu folate có thể vì thực phẩm không có, bị hủy hoại trong khi nấu hoặc không được ruột hấp thụ. Các dược phẩm chống kinh phong và thuốc ngừa thai cũng làm giảm sự hấp thụ folate. Điểm đặc biệt là dân nghèo lại hay thiếu vì họ thường nấu thực phẩm rất kỹ. Người ghiền rượu là đặc biệt hay bị thiếu folate. Bệnh do thiếu folate xẩy ra rất mau, chừng vài tháng. Mỗi ngày cơ thể cần khoảng 50microgram; khi có thai hoặc cho con bú sữa thì người mẹ cần hai ba lần nhiều hơn để ngừa thai nhi bị tật Nứt Ðốt Sống Spina Bifida, Khuyết Tật Ống Thần Kinh. Triệu chứng bệnh thiếu máu vì thiếu folate và B 12 giống nhau ngoại trừ tổn thất về thần kinh và tâm trí chỉ có trong trường hợp thiếu B 12. Ngoài ra, thiếu sinh tố B6 làm giảm sự tổng hợp huyết cầu tố; thiếu sinh tố E làm màng hồng cầu mỏng manh dễ bị tiêu huyết; thiếu sinh tố C đưa tới bệnh scurvy với chẩy máu nướu răng, dưới da. Các sinh tố này đều có rất nhiều trong thực phẩm ta dùng hàng ngày. Kết luận Dinh dưỡng có ảnh hưởng rất quan trọng đối với các bệnh thiếu máu. Nhưng nếu áp dụng một chế độ dinh dưỡng cân bằng, đa dạng và đầy đủ thì ta có thể tránh được các bệnh này. Danh từ Thiếu Máu Anemia được y học dùng để chỉ bệnh trong đó có sự thay đổi về số lượng và phẩm chất của hồng huyết cầu. Ðôi khi người mình cũng dùng danh từ này để nói về huyết áp thấp và dễ gây ngộ nhận. Với bệnh về áp suất của động mạch blood pressure thì nên có thói quen dùng danh từ Cao hoặc Thấp Huyết Áp, cho chính xác hơn. Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức Texas- Hoa Kỳ -----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
TÁC DỤNG CỦA VITAMIN A
Hàng ngày, nhu cầu cơ thể con người cần một số chất với liều rất nhỏ nhưng lại vô cùng quan trọng đối với cơ thể gọi là các vi chất dinh dưỡng. Hưởng ứng ngày vi chất dinh dưỡng 1 và 2-6 và ngày Quốc tế Thiếu nhi, chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc về Vitamin A - một vi chất quan trọng cho sự phát triển và phòng chống mù loà của trẻ em. Vitamin A (Retinol) có nhiều trong gan cá, đặc biệt là cá thu, ngoài ra còn có trong sữa mẹ, thịt, cá, bơ sữa, lòng đỏ trứng…; tiền chất Vitamin A là các Caroten có nguồn gốc từ thực vật: các loại củ, quả có màu đỏ (gấc, cà chua, cà rốt, đu đủ, hồng…; các loại rau có màu xanh đậm (rau ngót, rau muống, rau diếp…). Tác dụng của vitamin A Vitamin A hấp thu vào cơ thể và được dự trữ chủ yếu ở gan. Vitamin A là một loại vitamin đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của cơ thể và chức năng của mắt. Vitamin A tham gia vào hoạt động của thị giác, giúp cho võng mạc mắt nhận biết các hình ảnh khi thiếu ánh sáng. Các tiền vitamin A có nguồn gốc thực vật chưa có tác dụng ngay như tác dụng của vitamin A, nhưng sau khi hấp thu vào cơ thể sẽ tạo ra vitamin A và phát huy tác dụng. Ngoài ra, tiền vitaminA còn có tác dụng chống oxy hóa. Hậu quả của việc thiếu vitamin A Nếu trẻ bị thiếu vitamin A sẽ gây nên nhiều biến chứng, hay gặp nhất là các tổn thương ở mắt: quáng gà, khô mắt, khô màng tiếp hợp, khô giác mạc, nhiễm khuẩn viêm mủ và cuối cùng dẫn đến mù lòa. Ngoài ra, còn có thể bị tổn thương ở da, niêm mạc: da khô, da sừng hóa do thoái hóa tuyến mồ hôi, tróc vẩy niêm mạc đường tiết niệu, sinh dục, ỉa chảy…; có thể có các dấu hiệu khác như chán ăn, suy dinh dưỡng,… -------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
VITAMIN C VÀ VITAMIN PP
Đã từ lâu người ta cho rằng vitamin C và vitamin PP là yếu tố quan trọng trong việc điều trị bệnh viêm lợi, viêm quanh rǎng. Nếu cơ thể thiếu vitamin C và vitamin PP sẽ dẫn đến viêm lợi, viêm quanh rǎng. Lợi rǎng sẽ bị viêm loét, dễ chảy máu chân rǎng, dẫn đến rụng rǎng. Cũng vì thế, thường xảy ra trường hợp, sau mỗi đợt điều trị bổ sung thêm vita-min C và vitamin PP, bệnh viêm lợi, viêm quanh rǎng sẽ khỏi, nhưng sau đó ít ngày, vitamin bổ sung trong cơ thể hết, bệnh lại phát triển trở lại. Những vitamin này có nhiều trong rau quả, thực phẩm, nên cách bổ sung tốt nhất là: bổ sung bằng ǎn uống hàng ngày. Vitamin C và vitamin PP Vitamin C là vitamin tan trong nước, còn gọi là axít l.ascorbic. Nhu cầu hàng ngày là 50-100mg/ngày. Vitamin C có nhiều trong rau quả tươi, cam, chanh, ớt, cà chua, rau xanh... và cũng có trong các tuyến giáp, tuyến thượng thận... Vitamin C có tác dụng sẽ tǎng cường sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh nhiễm trùng, bảo vệ được thành mạch máu, giúp cơ thể chống rét, chống mệt mỏi, còn có tác dụng cầm máu và giúp cho các tuyến nội tiết hoạt động tốt. Nếu thiếu vitamin C sẽ sinh hoại huyết, chảy máu lợi, viêm lợi, viêm quanh rǎng, mao mạch kém dẻo dai, nhược sức, mệt mỏi, loạn dưỡng rǎng xương, suy thận, thấp khớp mạn... Không nên dùng quá 500mg/ngày, để tránh tác hại của chính vitamin C ở liều cao gây nên: rức đầu buồn nôn, đi ngoài lỏng, tim đập chậm. Còn vitamin PP cũng là vitamin tan trong nước, còn gọi là vitamin B 3 hay niacin. Nhu cầu hàng ngày của người lớn là 15-25mg/ngày. Vitamin PP có nhiều trong gạo lức (thô), ngũ cốc còn nguyên vỏ lụa, đậu xanh nguyên vỏ, lạc, vừng, rau đay, rau ngót... Nếu ǎn uống cân bằng, đầy đủ vitamin PP sẽ làm hệ tiêu hóa hoạt động tốt, chống được loét miệng, mồm hôi, da dẻ mịn màng, ít bắt nắng. Vitamin PP ít khi bị thiếu, trừ trường hợp ǎn thường xuyên gạo xay sát quá trắng, hoặc ǎn ít rau quả tươi hàng ngày. Thiếu vitamin PP gây rối loạn da dẻ, nhu mô, lở loét mồm miệng, nặng nhất là mắc bệnh Pellagra (da thâm đen và tróc vẩy, tinh thần bần loạn) nhẹ thì ngứa ngáy, dễ nhiễm trùng, viêm lợi, hơi thở hôi. Bổ sung vitamin PP tốt nhất là bằng ǎn uống thực phẩm rau quả hàng ngày. Vitamin PP cũng có dạng viên bào chế 50-100mg/viên. Không độc nhưng không nên dùng quá 100mg/ngày. Liều cao có thể gây rối loạn chuyển hóa đường và axít uric gây bệnh thống phong. Tóm lại đưa vào cơ thể vitamin C và vitamin PP sẽ tǎng cường được hệ miễn nhiễm, tǎng cường được khả nǎng đề kháng, chống nhiễm khuẩn, giúp cho điều trị viêm lợi, viêm quanh rǎng có hiệu quả cao, mau khỏi. Phòng bệnh viêm lợi và viêm quanh rǎng Để việc điều trị viêm lợi, viêm quanh rǎng có kết quả cao, cần phải đi bác sĩ nha khoa để làm sạch các mảnh bám rǎng và cao rǎng vì nguyên nhân chủ yếu của bệnh là do vi khuẩn trong các mảnh bám rǎng. Sau đó tùy tình hình bệnh trạng, bác sĩ sẽ cân nhắc chỉ định dùng thuốc bôi, thuốc đặt tại chỗ, hoặc kháng sinh đường uống, đồng thời kết hợp với việc bổ sung vitamin C và vitamin PP. Nếu nặng thì có thể được phẫu thuật để loại bỏ các tác nhân gây nhiễm nằm sâu trong tổ chức quanh rǎng và còn đảm bảo vấn đề thẩm mỹ. Để phòng bệnh viêm lợi, viêm quanh rǎng cần tạo thói quen khám rǎng lợi 6 tháng một lần để phát hiện sớm những bệnh về rǎng lợi nếu có. Đồng thời tự chǎm sóc rǎng miệng, đúng kỹ thuật, sau bữa ǎn, dùng các loại nước sát trùng có bán trên thị trường hoặc nước muối nhạt 7-8 phần ngàn để súc miệng sau khi đánh rǎng. Thỉnh thoảng ngậm một quả kha tử, theo kinh nghiệm dân gian, quả này có tác dụng kháng sinh chống viêm khoang miệng, khi ngậm có thể nuốt dần nước từ quả tiết ra cho tới khi cảm thấy hết chát thì thôi. Bổ sung vitamin C và PP 0,1mg/ngày để tǎng cường sức đề kháng của cơ thể và ngǎn chặn viêm lợi, viêm quanh rǎng. -----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------